Thứ Năm, 26 tháng 4, 2012

Vô Gia Đình - Phần 2-7_đọc truyện sex hay việt

Trang 7 trong tổng số 24

Chương XXVII

CUỘC CỨU VỚT

Mỗi ngày, chúng tôi thấy bực dọc quá với các bậc hẹp của chúng tôi. Chúng tôi đồng ý khơi rộng bậc ra và mỗi người lại phải bắt tay vào việc. Chúng tôi lại dùng dao moi than và vứt xuống nước. Vì đã có chỗ đứng vững để xoay xở, nên việc làm không khó nhọc lắm. Không bao lâu chúng tôi khoét rộng được cái nhà giam của chúng tôi. Dễ chịu biết bao nhiêu khi chúng tôi được nằm dài và được duỗi thẳng chân không phải ngồi co, tê cả đùi như trước.
anh sex
truyện sex hay
phim sex hay
truyện ma kinh dị

Chiếc bánh của Cao-Dĩ dù chia dè sẻn thế nào rồi cũng phải hết. Mẩu bánh cuối cùng đã phân phát cho chúng tôi kịp thời, vì khi Giáo-sư đem cho chúng tôi, con mắt mọi người thợ cuốc cứ nhìn trừng trừng, tôi nhận thấy nếu còn bánh phát lần nữa, thế nào họ cũng không để yên, họ sẽ đòi ăn và cứ lấy phần.
Chúng tôi dần dần chẳng buồn nói chuyện nữa. Lúc mới bị nạn nói nhiều bao nhiêu thì bây giờ im lặng bấy nhiêu. Có nhắc đến chăng thì cũng chỉ hai vấn đề đã nói mãi: họ làm thế nào để xuống tới đây và chúng tôi đã bị giam trong bao lâu rồi?

Nhưng, những câu chuyện này cũng không được bàn cãi hăng hái như trước. Có ai lên tiếng, tiếng đó không người hưởng ứng hay được trả lời bằng một câu vắn tắt. Người ta có thể bảo đêm là ngày, bảo đen là trắng, mà cũng chẳng ai bực tức và phản đối, chỉ nói cho xuôi:
- Được, để xem.
Chúng tôi bị chôn vùi đã hai ngày hay sáu ngày? Khi nào có người đến cứu? Có chắc không? Tôi bắt đầu nghi ngờ.
Chẳng riêng một tôi, thỉnh thoảng một bạn tôi cũng thốt ra những lời chán nản.
Bảy-Nhu nói:
- Có điều an ủi tôi là: nếu tôi chết ở đây, Công ty sẽ phải trợ cấp cho vợ con tôi, không đến nỗi phải vào nhà Tế Bần.

Giáo-sư lãnh trách nhiệm đoàn trưởng, không những có bổn phận bảo vệ chúng tôi để chống với tai họa mà còn bảo vệ chúng tôi để chống với chúng tôi nữa. Vì thế, khi thấy ai tỏ ra chán nản, Giáo-sư liền can thiệp bằng một câu khích lệ:
- Anh không phải ở đây lâu đâu! Thùng nước múc luôn luôn. Nước phải xuống.
- Nước xuống ở đâu?
- Ở những lò.
- Còn các hầm?
- Cũng sẽ đến lượt. Ta phải đợi.
Cao-Dĩ nói:
- Ông Bảy-Nhu ơi! Giáo-sư nói cái gì cũng hay cả. Nếu Công ty này mà phá sản như Công ty của Giáo-sư ngày trước, có phải vợ ông bị người ta bóc lột hết không?

- Im mồm! Mày ngu lắm! Công ty rất giầu.
- Công ty chỉ giầu khi còn mỏ. Một khi mỏ chìm dưới nước thì còn gì nữa? Nếu tôi ở trên đất trông thấy thế này, tôi rất thích!
- Bởi vì…?
- Các Giám đốc và Kỹ-sư kiêu hãnh lắm! Bây giờ thực là một bài học cho họ. Nếu Kỹ-sư hôm đó cũng xuống mỏ nhỉ, thực là buồn cười! Thưa Kỹ-sư, ngài có mang địa bàn không?
- Đồ ngu! Nếu Kỹ-sư có xuống nữa, mày cũng phải ở đây. Chúng ta cũng thế.
- Thưa các vị, các vị có thể yên tâm được. Tôi thì khác. Ai phơi hạt dẻ cho tôi? Lúc đó, tôi mời Kỹ-sư lên cho. Kính chào ngài Kỹ-sư!
Giáo-sư lúc nào cũng trấn tĩnh, không để lộ vẻ lo buồn. Còn Cao-Dĩ thì chẳng biết gì. Riêng chúng tôi, ai cũng lo lắng. Hễ nói đến chuyện đợi cứu là y như những tiếng “chết”, tiếng “bỏ rơi” lại nổi lên tự đáy lòng đưa lên cửa miệng.

- Giáo-sư ơi! Hão lắm! Lấy thùng mà múc thì đến đời nào hết nước?
- Tôi đã tính cho anh nghe mãi rồi thôi. Hãy gắng đợi.
- Những bài tính không cứu ta ra khỏi hầm được.
Ý nghĩ này là của Ba-Điền.
- Ai cứu được?
Giáo-sư đáp:
- Có thể lắm. Nếu Thượng-Đế thương. Người có thể cứu vớt chúng ta.
- Chúng ta bị nạn này, chắc vì trong bọn chúng ta có những người độc ác mà trời muốn phạt.
Bảy-Nhu nói:
- Phải đấy. Thượng-Đế muốn cho một người trong bọn ta có dịp để chuộc lỗi, để đền tội. Có phải Ba-Điền không? Tôi không biết về phần tôi, tôi có thể nói được rằng những ngày gần đây tôi ăn ở không được ngoan đạo lắm, bây giờ lương tâm tôi cắn rứt, tôi dốc lòng cầu nguyện Thượng-Đế tha thứ cho tôi.

Nói xong Bảy-Nhu quỳ xuống và tự đánh vào ngực.
Ba-Điền kêu:
- Còn tôi, tôi không dám nói rằng tôi không có tội lỗi gì trong lương tâm, tôi xin xưng với các bạn như thế. Nhưng Thiên thần hộ mệnh, và Thánh Giăng, thần bổn mệnh của tôi, đều soi xét cho rằng không bao giờ tôi chủ tâm làm xằng và tôi không hề có lỗi với ai cả.
Tôi không hiểu đó có phải là cảm ứng của ngục tối, của cái chết sắp đến, của cái đói dày vò, của ánh sáng huyền bí đang chập chờn kia gây nên hay không, nhưng khi thấy hai người vừa công khai xưng tội, lòng tôi rung động và cảm xúc, bất giác tôi cũng quỳ xuống cạnh Bảy-Nhu, Ba-Điền và cùng xưng tội với họ. Thình lình sau lưng tôi có tiếng khóc, tôi quay lại, thấy Tư-Cổn lù lù ngồi vật xuống đất. Tư-Cổn nói:
- Người tội lỗi không phải là Ba-Điền, không phải là Bảy-Nhu. Người tội lỗi đó chính là tôi. Chính là vì tôi mà trời phạt, nhưng tôi đã biết hối hận rồi, hối hận lắm. Đây là sự thực, xin các bạn hãy nghe cho, nếu tôi thoát khỏi chỗ này mà về được, tôi sẽ tìm cách chuộc tội. Nếu vạn nhất tôi không về được, xin các bạn chuộc tội cho tôi. Cách đây một năm, Duy-Quế bị 5 năm tù về tội ăn trộm chiếc đồng hồ của một người tên Vi-Đan, để ở trong buồng. Duy-Quế bị tù oan.

Chính tôi đã lấy trộm. Chiếc đồng hồ đó hiện giấu ở dưới giường của tôi, nhắc viên gạch vuông thứ ba về phía bên trái lên thì tìm thấy.
Ba-Điền và Bảy-Nhu đồng kêu lên:
- Quẳng nó xuống nước đi! Quẳng nó xuống nước đi!
Giáo-sư vội can thiệp:
- Không được! Nếu các anh muốn quẳng Tư-Cổn xuống nước thì xin quẳng tôi xuống trước.
Hai người kia nói:
- Nếu Giáo-sư không cho tôi đẩy nó xuống nước thì chúng tôi xin một điều kiện: cho nó ngồi riêng ra một chỗ, không ai được nói chuyện với nó và cũng không ai được săn sóc đến nó.
Giáo-sư nói:
- Như vậy thì được, vì nó đáng tội đó.

Sau lời tuyên án của Giáo-sư, chúng tôi, ba người An-Thiện, Giáo-sư và tôi, ngồi xít lại với nhau, để cách một khoảng trống giữa chúng tôi và tội nhân, hắn nằm gục trên đám than.
Trong bao nhiêu giờ, hắn nằm gục như thế, đau khổ và không cựa cạy, thỉnh thoảng lại kêu:
- Tôi hối hận rồi!
Ba-Điền và Bảy-Nhu mắng:
- Đã muộn rồi! Bây giờ sợ chết mày mới hối hận, đồ hèn! Đáng lẽ mày phải hối hận từ sáu tháng, từ một năm nay rồi!
Hắn vừa hổn hển vừa nhắc lại những câu trước như để trả lời:
- Tôi hối hận rồi! Tôi hối hận rồi!
Hắn phát sốt, vì thân thể hắn run run, và hai hàm răng hắn lập cập.

Hắn kêu:
- Tôi khát lắm. Cho tôi chiếc giầy.
Nhưng chiếc giầy hết nước rồi. Tôi liền đứng dậy để lấy nước cho hắn. Nhưng Ba-Điền trông thấy bảo tôi ngồi im và An-Thiện cũng giữ tay tôi lại.
Ba-Điền nói:
- Người ta đã thề không săn sóc đến nó.
Tư-Cổn cứ lải nhải kêu khát mãi.
Cuối cùng hắn bò dậy tự múc nước lấy.
Ba-Điền kêu:
- Nó làm lở hết chỗ ngồi bây giờ!
Giáo-sư nói:
- Nên cho nó được tự do một chút.
Tư-Cổn đã nhìn thấy tôi tụt xuống nước đằng lưng, hắn cũng bắt chước làm như thế. Nhưng tôi nhẹ mà hắn nặng. Tôi mềm mại mà hắn vụng về, nên khi hắn vừa để chân xuống thì mẩu than sụt, hai tay hắn quờ quạng trong không khí, hắn lăn tòm xuống vực sâu, nước bắn tóe lên chỗ chúng tôi ngồi. Mặt nước khép lại và không mở ra nữa.

Tôi vội cúi ra phía trước, nhưng An-Thiện và Giáo-sư mỗi người một bên nắm cánh tay tôi lôi lại.
Tôi rủn người và ngã vật về phía sau, khiếp sợ.
An-Thiện nói:
- Nó không phải là người lương thiện.
Ba-Điền lấy chân đá vào vách than mấy cái và nói:
- Bây giờ thì mọi việc đều tốt đẹp!
Nhưng mọi việc chưa được tốt đẹp như lòng Ba-Điền tin tưởng. Đó không phải là lỗi các Kỹ-sư và bọn thợ đang tiến hành công cuộc giải cứu. Người ta đã đào suốt ngày đêm không nghỉ, nhưng việc làm rất khó.
Người ta đang đào đến lớp than rất rắn mà thợ mỏ thường gọi là “gân than”. Vả hầm đào lại hẹp chỉ vừa chỗ cho một người cuốc nên họ phải luân phiên nhau làm việc. Xuống càng sâu, không khí càng khó thở. Người ta phải đặt những ống bằng sắt tây để dẫn khí trời xuống. Một cái quạt tay gia sức thổi không khí xuống… thế mà ngọn đèn chỉ cháy được ở gần miệng ống thôi. Vì những lẽ đó, nên việc làm rất chậm. Đã 7 ngày đêm rồi mà người ta chỉ đào xuống được có 20 mét. Nếu là việc thường phải một tháng mới xong, nhưng trong trường hợp khẩn cấp, mọi người đều hăng hái, cho nên kết quả có thể đạt sớm hơn được.

Công việc sở dĩ cứ tiến hành được là nhờ ở trí cương quyết của Kỹ-sư, vì theo ý đại đa số việc làm đó rất vô ích. Tất cả những thợ bị chôn vùi đều chết rồi. Chỉ nên múc hết nước bằng thùng rồi ngày một ngày hai, người ta sẽ tìm đủ xác nạn nhân. Thế thì xuống hầm được sớm hơn hay chậm hơn một vài giờ có quan hệ gì? Đó là ý kiến của những nhà có thẩm quyền cũng như toàn thể dân chúng. Những cha mẹ, vợ con các nạn nhân đã để tang cả rồi. Quyết rằng không một người nào lại sống sót được ở hầm mỏ Thụy-Khê.
Để ngoài tai những dị nghị của công chúng và những lời phê bình của các bạn đồng nghiệp, Kỹ-sư không sờn lòng, khăng khăng cho đào đến nơi.
Người ta thấy có ở Kỹ-sư một tính khí cương ngạnh và một lòng tin mãnh liệt, đức tính quý báu đã giúp Kha-Luân-Bố tìm thấy Mỹ-châu.
Kỹ-sư hô hào đám thợ:
- Các bạn ơi! Còn một ngày hôm nay nữa thôi. Nếu ngày mai không tìm thấy gì mới lạ, ta sẽ đình chỉ việc làm. Tôi chỉ yêu cầu anh em cho các nạn nhân những điều mà tôi cũng sẽ yêu cầu cho chính anh em nếu anh em lâm vào cảnh đó.

Lòng tin tưởng của Kỹ-sư đã thông cảm anh em thợ thuyền. Họ đồng tâm, hiệp lực hoạt động không ngừng, nên hầm khoét mỗi ngày một sâu.
Về mặt khác, Kỹ-sư cho chống lại đường hầm ở nhà Đèn sụp đổ nhiều chỗ, cố tìm mọi cách để khám phá xem dưới hầm còn có ai sống sót.
Ngày thứ bảy, một người thợ cuốc vừa thay phiên xuống đào, nghe thấy tiếng lịch kịch nhè nhẹ như có người nện khẽ đâu đây. Đáng lẽ bỏ cuốc xuống, nhưng người thợ đó cứ giơ cuốc lên rồi áp tai vào sườn than. Song còn ngờ ngợ, người này gọi một người bạn nữa xuống để cùng nghe. Cả hai người đều im lặng lắng tai nghe: một lúc sau có những tiếng đập xa xa đều đều, đến tai họ.
Tin này lập tức bay lên bờ. Người ta nửa tin, nửa ngờ. Kỹ-sư được tin liền xuống xem hư thực.
Thì ra Kỹ-sư đã làm một việc hữu lý. Ở đó có những người sống sót mà lòng tin của Kỹ-sư sắp cứu ra được. Nhiều người theo Kỹ-sư xuống chỗ đào, Kỹ-sư rẽ đám thợ ra, dán tai vào sườn hầm. Nhưng vừa run run vừa cảm động, Kỹ-sư chẳng nghe thấy gì.
Kỹ-sư thất vọng nói:
- Tôi không nghe thấy gì cả.
Một người thợ nói:
- Đó là tiếng ma mỏ làm ra. Nó muốn trêu ta, nó gõ để đánh lừa ta.

anh sex
truyện sex hay
phim sex hay
truyện ma kinh dị

Nhưng hai người thợ đầu tiên nhất quyết rằng họ không nhầm và những tiếng gõ kia đã đáp lại tiếng gõ của họ. Đó là lời những người kinh nghiệm ở mỏ nói ra nên cũng có một phần uy tín.
Kỹ-sư liền mời tất cả những người tùy tùng lên bờ, chỉ để hai người thợ cuốc ở lại.
Lúc đó hai người lấy cuốc gõ mấy tiếng rất mạnh và cách khoảng đều nhau, rồi ba người đều nín thở áp tai nghe. Đợi một lúc, cả ba người đều nhận một rung động sâu xa trong trái tim họ. Đó là những tiếng nhẹ yếu nhưng dồn dập và nhịp nhàng đã trả lời họ.
Kỹ-sư bảo hai người thợ mỏ:
- Các bạn gõ lại rất thong thả xem có phải đó là âm hưởng những tiếng của ta không?
Hai người thợ cuốc lại gõ thì lại nghe thấy những tiếng nhỏ và nhịp nhàng như trước nghĩa là những tiếng kêu gọi của những người bị vùi lấp.
Không còn nghi ngờ gì nữa: có những người còn sống sót thực và người ta phải xúc tiến việc cấp cứu.
Lập tức tin này lan khắp thành phố như một cái ngòi dẫn thuốc nổ và lôi cuốn đến mỏ Thụy-Khê, một đám dân chúng đông hơn và xúc động hơn ngày đầu xảy ra nạn lụt. Vợ con, cha mẹ và thân thích những nạn nhân kéo đến, hy vọng và hồi hộp trong bộ quần áo tang. Họ xôn xao:

“Sống sót được bao nhiêu người? Dễ thường nhiều lắm! Có cả chồng bác, có cả con tôi nữa, chẳng sai!”
Người ta muốn chạy đến hôn Kỹ-sư. Nhưng thản nhiên trước tiếng hoan hô cũng như trước lời la ó, Kỹ-sư chỉ nghĩ đến việc cấp cứu. Để ngăn những người đến xem cũng như thân nhân các người bị nạn, Kỹ-sư phải nhờ lính ở đồn ra giữ trật tự cho thợ có chỗ làm việc.
Những tiếng kêu cứu nhỏ quá không biết đích từ phía nào đưa đến, người ta đoán chỉ ở trong ba cái hốc của hầm cũ là nơi thợ có thể lánh nạn được. Như vậy đào một lỗ xuống chưa đủ, phải đào thêm hai lối nữa để tới những cái hốc nói trên. Khi lối nào đào đến chỗ nghe rõ hơn thì người ta bỏ hai lối kia và tập trung lực lượng vào một lối cần thiết. Công việc tiến hành hăng hái hơn trước. Các Công ty bên cạnh cũng cho những thợ tinh nhuệ đến giúp sức. Người ta hy vọng vào lối đang đào, đồng thời người ta cũng hy vọng vào lối xuống cũ ở cửa Nhà Đèn vì nước ở các lò đã rút nhiều.
Ở dưới hốc, khi chúng tôi nghe thấy tiếng gõ của Kỹ-sư chúng tôi cuống quít như lúc mới nghe thấy tiếng thùng múc nước ở cửa lò:
- Sống rồi!
Tiếng reo vui vẻ đó đều vuột ra ở miệng mọi người. Chúng tôi tưởng người ta sắp đến dắt chúng tôi lên. Nhưng đợi mãi, cũng như việc múc nước, hy vọng biến dần thành thất vọng.
Những tiếng cuốc kình kịch nghe còn xa, có lẽ còn cách chúng tôi đến hai ba mươi mét. Phải mất bao nhiêu thì giờ để xuyên qua khối than đó? Chúng tôi ước lượng, mỗi người một cách: một tháng, một tuần lễ, sáu ngày. Đợi thế nào được những một tháng? Những một tuần lễ? Những sáu ngày? Bọn chúng tôi, ai còn đủ hơi sức trong sáu ngày nữa? Chúng tôi đã nhịn đói trong bao nhiêu ngày rồi?

Chỉ có Giáo-sư là còn nhuệ khí, nhưng rồi cũng thấy kém dần. Chúng tôi tha hồ uống nước, nhưng chúng tôi đói lắm, không chịu được nữa, đã thử ăn những mẩu gỗ thối vẩn trên mặt nước.
Cao-Dĩ đói háu hơn chúng tôi đã xẻo cổ giầy và nhai những miếng da dai nhách.
Nhìn cái đói đốt ruột đã đưa người ta đến chỗ nào, tôi đâm ra lo sợ. Tôi nhớ lại những chuyện đắm tàu mà ông Vỹ-Tiên đã kể lại cho tôi nghe vì ông đã từng đi bể nhiều cũng như đi trên đất. Trong các chuyện đó, có một chuyện làm cho tôi phải nghĩ đến ngay lúc cái đói bắt đầu. Đó là chuyện mấy người thủy thủ đắm tàu, lạc vào một hoang đảo toàn cát không có một thứ gì để ăn, sau đói quá phải giết một đứa thủy thủ nhỏ để ăn thịt. Khi nghe thấy những bạn tôi kêu đói, tôi tự hỏi không biết tôi có phải chịu như số phận đứa bé kia không? Đành rằng Giáo-sư và An-Thiện là những người bảo vệ cho tôi rồi, nhưng còn Ba-Điền, Bảy-Nhu và Cao-Dĩ, nhất là Cao-Dĩ có những răng dài và trắng đã mài sắc bằng những miếng da, vẫn làm cho tôi ngờ vực.
Có lẽ, sự sợ hãi đó hơi thừa, nhưng ở trong tình trạng chúng tôi, người ta khó mà không rối trí và sinh ra lẩn thẩn.
Điều làm tăng nỗi khiếp sợ của chúng tôi là cái tối dày đặc. Những đèn của chúng tôi lần lượt hết dầu. Khi chỉ còn hai chiếc, Giáo-sư bắt tắt đi để khi nào cần thiết mới thắp. Vì thế chúng tôi hoàn toàn ở trong ngục tối.

Thiếu ánh sáng, không những kinh hồn, lại còn nguy hiểm nữa vì nếu lỡ ai cử động vụng về là có thể lăn xuống nước dễ như chơi.
Mỗi bậc chứa ba người, không đến nỗi chật lắm: An-Thiện, Giáo-sư mỗi người một đầu, còn tôi ở giữa.
Có lúc tôi đang thiu thỉu ngủ, tôi chợt nghe thấy Giáo-sư nói một mình như người ngủ mê.
Tôi thức dậy và lắng tai nghe.
Giáo-sư nói:
- A! Có mây! Không còn gì đẹp hơn mây nữa! Có người không thích mây. Nhưng ta rất yêu mây. À mà lại có gió nữa, ta cũng thích gió.
Giáo-sư mê chăng? Tôi lay cánh tay Giáo-sư, nhưng Giáo-sư vẫn nói:
- Tráng cho tôi một đĩa sáu trứng, đừng làm tám. Làm hai đĩa khi trở về, tôi sẽ ăn.
- Chú An-Thiện ơi! Chú có nghe thấy gì không?
- Có. Giáo-sư đang nói mê.
- Nhưng không. Giáo-sư vẫn thức.
- Ông ấy nói nhảm. Con cam đoan rằng Giáo-sư vẫn thức.
- Giáo-sư ơi!

- Ông An-Thiện ơi! Mời ông đến ăn súp với tôi. Tôi báo trước là có gió to đấy.
An-Thiện nói:
- Ông này mất trí khôn. Đói và sốt sinh ra thế.
Bảy-Nhu nói:
- Không phải. Ông ấy chết rồi! Đó là hồn ông ấy về đấy. Các bạn đã thấy là ông ấy đã không ở đây nữa rồi chứ? Giáo-sư ơi! Gió ở đâu? Có phải là gió Bắc không?
Ba-Điền nói:
- Không có gió Bắc.
Mấy người này mất trí khôn cả rồi hay sao? Họ sắp điên à? Rất có thể họ sẽ đánh nhau, giết nhau. Làm thế nào bây giờ?
- Giáo-sư ơi! Giáo-sư uống rượu không?
- Cảm ơn. Khi ăn trứng, tôi sẽ uống.

Trong thời gian khá lâu, cả ba người cùng nói lảm nhảm với nhau và không trả lời nhau. Trong những câu nói rời rạc đó, tôi nghe lộn đi lộn lại những tiếng “ăn, đi chơi, gió, trời”.
Tôi chợt có ý nghĩ thắp đèn lên. Đèn và diêm để bên cạnh Giáo-sư. Tôi sờ tay cầm lấy. Ánh sáng vừa chiếu ra, mọi người đều im, không nói nữa.
Một lúc sau, họ chợt thức dậy, hỏi:
- Cái gì thế?
An-Thiện đáp:
- Các bạn vừa nói mê.
- Ai thế?
- Cả ba người: Giáo-sư, Ba-Điền và Bảy-Nhu. Các bạn nói các bạn đi chơi ở ngoài trời và có gió.
Thỉnh thoảng chúng tôi lại đập vào tường để báo hiệu cho bên ngoài biết chúng tôi vẫn còn sống. Chúng tôi vẫn nghe thấy tiếng cuốc vẫn bổ vào than đều đều. Nhưng còn xa lắm.

Nhờ ánh đèn, tôi cầm giầy xuống lấy nước và nhận thấy mực nước đã hạ xuống một vài phân.
- Nước xuống.
- Lạy Chúa!
Lại một lần nữa chúng tôi phấn khởi vì hy vọng. Mọi người muốn để đèn để xem nước xuống, nhưng Giáo-sư phản đối. Tôi tưởng có chuyện sắp cãi nhau, nhưng bất cứ một đề nghị gì, Giáo-sư cũng có những lý do chính đáng nên ai cũng phải nghe.
Giáo-sư nói:
- Chúng ta còn cần đèn. Nếu bây giờ ta dùng đèn vào việc vô ích, đến lúc cần kíp mà hết cả dầu thì làm thế nào? Vả lại ngồi mà nhìn nước xuống tí một thì có sốt ruột mà chết không? Vì nước không thể nào một lúc rút hết ngay được. Thế nào ta cũng sống. Các bạn yên lòng. Chúng ta còn 13 que diêm. Khi nào các bạn cần đến thì có lửa ngay.

Đèn được tắt đi ngay. Chúng tôi đã uống nước nhiều nên không mê sảng nữa. Rồi chưa nằm yên lặng không biết bao nhiêu ngày nữa, đời sống chỉ thoi thóp nương tựa vào những tiếng cuốc đào than và những tiếng thùng múc nước.
Tiếng cuốc dần dần to. Mực nước mỗi ngày một thấp. Người ta đang đến gần chúng tôi. Nhưng không biết có kịp không? Nếu công cuộc giải cứu chúng tôi mỗi lúc một tăng lên thì trái lại, sức khỏe của chúng tôi mỗi lúc một suy tàn đi: thể xác yếu, tinh thần cũng yếu. Từ ngày mắc nạn đến giờ, các bạn tôi không được ăn một mẩu bánh nào vào ruột. Một điều ghê gớm hơn nữa là cái không khí tù hãm mà chúng tôi thở mỗi ngày một độc. May sao, nhờ nước rút dần, áp lực không khí bớt đi. Nếu cứ bị bế tắc như những ngày đầu thì chúng tôi đã chết ngạt hết rồi. Do đó, chúng tôi còn sống dai dẳng đến ngày nay cũng là nhờ các cách cấp cứu mau lẹ từ lúc đầu.
Tiếng cuốc và tiếng thùng chuyển động rất đều như cái quả lắc đồng hồ. Mỗi khi tiếng đó ngừng lại là chúng tôi sốt người lên. Người ta định bỏ chúng tôi hay sao? Người ta đã gặp những khó khăn gì?
Chợt có tiếng cuốc ngừng rồi có một tiếng động lớn nổi lên ù ù dữ dội và liên tiếp.
Cao-Dĩ kêu lên:
- Chết rồi! Nước lại xuống mỏ rồi!

Giáo-sư cải chính:
- Không phải nước.
- Thế là cái gì?
- Ta không biết, nhưng nhất quyết không phải nước.
Mọi khi, gặp việc gì xảy ra, Giáo-sư thường viện chứng và suy luận rất hữu lý, khiến chúng tôi được yên tâm. Lần này, Giáo-sư lại thú nhận rằng không biết nguyên do tiếng động kia – mãi sau này chúng tôi mới biết đó là tiếng quạt máy lùa không khí xuống cho thợ đào làm việc – nên chúng tôi rất hoảng và ngờ rằng sắp lại bị lụt.
- Thắp đèn lên!
- Thắp làm gì, vô ích.
- Thắp lên! Thắp lên!
Vì nhiều người gào quá nên Giáo-sư phải cho thắp đèn. Ánh sáng cho họ biết rằng nước không lên mà đang xuống.

Giáo-sư nói:
- Các bạn nhìn xem.
- Nước sắp lên! Lần này phải chết!
- Thế thì chết ngay còn hơn. Tôi không sao chịu được nữa!
- Giáo-sư ơi! Cho tôi xin cái đèn, để tôi viết lại cho vợ con vài chữ.
- Viết giúp tôi với!
- Viết giúp tôi nữa!
Chính Bảy-Nhu là người đã đòi đèn và viết thư để lại cho vợ con. Trong túi Bảy-Nhu có một mảnh giấy và cái bút chì. Hắn sửa soạn để viết.
- Đây tôi muốn viết thế này: Chúng tôi An-Thiện, Ba-Điền, Giáo-sư, Cao-Dĩ và Lê-Minh bị cầm tù trong hang, chúng tôi đang hấp hối:
“Tôi, Bảy-Nhu, cầu nguyện Chúa phù hộ cho vợ góa và con côi của tôi. Giờ phút cuối cùng, tôi chúc cho vợ con tôi được phúc lành”.
Còn ông An-Thiện?
“An-Thiện đem tất cả của cải đồ đạc cho cháu An-Sinh”.
anh sex
truyện sex hay
phim sex hay
truyện ma kinh dị

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét